Một số hiện tượng sự cố khi thi công cọc khoan nhồi
Có thể do có
tảng đá mồ côi làm cho cần khoan lệch qua 1 bên nếu khoan liên tục như thế làm
cho lệch hố khoan. Độ nghiêng cọc khoan nhồi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố từ
khi bắt đầu thi công:
1. Trong giai
đoạn hạ ống vách (Casing)
-Kiểm tra
bằng thước Nivo.
2. Trong giai
đoạn khoan:
a. Độ nghiêng
của tháp khoan (Boom), cái này chỉ có ở một số thiết bị như là máy khoan BG của
Đức, máy khoan Soilmec, Buma (Hàn Quốc),.... Độ thẳng đứng của tháp khoan được
điều chỉnh bằng thiết bị điện tử có trong buồng điều khiển, cân chỉnh như máy
toàn đạc.
b. Độ nghiêng
của cần khoan cũng cần được kiểm tra, tuy nhiên nó phụ thuộc phần lớn vào tháp
khoan và đầu bò. Với máy khoan KH, máy này độ nghiêng của cọc thường lớn. Không
có nhiều số liệu thống kê, nhưng có khi đáy cọc lệch tới 2m (đối với cọc 50m).
3. Sau khi
khoan xong: kiểm tra bằng máy Koden, loại này hiện đang rất phổ biến tại Việt
nam ví nhanh và chính xác.
4. Inclinometer:
Dùng để kiểm tra chuyển vị (độ nghiêng) của các cọc hoặc tường sau này thôi.
Tóm lại: Kiểm
tra độ nghiêng cọc sau khi khoan thì dùng Koden. Còn muốn hạn chế nó thì phải
có thiết bị khoan và qui trình kiểm tra nghiêm ngặt.
Nếu thừa bê
tông tức là hố khoan đã sập và không có chổ cho bê tông xuống nữa nên bị
đầy; còn nếu nó thiếu so với mức quy định; chứng tỏ hố khoan bị sập về hai phía
tạo thành 1 khoảng không gian quá lớn.
Yếu tổ chính
ảnh hưởng đến khối lượng bê
tông cọc khoan nhồi (mức độ hao hụt bê tông)là:
Yếu tố khách
quan
Địa chất
khoan là yếu tố quan trọng nhất. Nếu địa chất tốt như vào lớp sét chằng hạn thì
độ ổn đình và kích thươc lỗ khoan không bị thay đổi nên mức độ hao hụt ít. Còn địa
chất xấu vào những tầng cát, cát chảy, túi bùn... ảnh hưởng rất lớn đến kích
thước lỗ khoan thường gây ra sạt lỡ thành vách dẫn đến
kích thước cọc
bị phình ra cho nên mức hao hụt bê
tông sẽ lớn. Gặp mạch nước ngâm có dòng chảy qua. Dung dịch bentonite
thấm vào trong đất cũng có thể do dung dịch chất lượng không tốt nên nó có thể
thấm vào đất.
Yếu tố chủ
quan
- Bê
tông tắc trong ống đỗ: đẩy ống đỗ cao hơn mặt bêtông trong lỗ do độ
sụt của bê tông quá thấp dẫn đến bị kẹt trong ống dẫn bê tông,
bê tông bị kẹt trong ống không xuống được mà vẫn thi
công
- Do dung dịch giữ
thành lỗ khoan không đảm bảo đúng tiêu chuẩn về độ nhớt, tỉ trọng, độ PH... dẫn đến
sạt lở thành lỗ khoan.
- Kiểm soát kích
thước dao cạnh của gầu khoan thường thì theo kinh nghiệm cách này có thể
làm tăng hoặc giảm kích thươc của lỗ khoan bằng cách chỉnh cho con dao
cạnh của gầu khoan lớn hoặc nhỏ hơn.
- Khoan quá nhanh
cũng gây ra ảnh hưởng đến kích thước lỗ khoan (lỗ khoan giống như tạo ren)
và dể gây ra sạt lở do dung dịch giữ thành chưa kịp tạo được màng ngăn giữ
ổn định vách.
- Kiểm soát quá trình
thổi rửa, làm sạch đáy hố khoan trước khi đổ bê tông. Khâu này được đánh giá là quan trọng
nhất trong quá trình thi công cọc vì nó quyết định đến chất lượng cọc, khả
năng chịu tải của cọc.
- Nhận biết của thợ
lái máy khoan trong quá trình khoan: Đối với thợ kinh nghiệm thì cảm giác
gầu sẽ biết được (máy khoan ko có cảm biến đo sâu). Đối với máy khoan có
cảm biến độ sâu thì sẽ hiển thị ngay trên màn hình khi sự cố xảy ra.
- Sau khi sàng cát,
trước khi hạ lồng, sau khi hạ lồng, trước khi đổ bê tông đều cần phải đo
lại độ sâu.
- Chiều cao dâng bất
thường của bê tông trong quá trình đổ cũng rất đáng nghi vấn.
Các nguyên nhân chủ yếu ở trạng thái tĩnh:
- Độ dài của ống vách
tầng địa chất phía trên không đủ qua các tầng địa chất phức tạp.
- Duy trì áp lực cột
dung dịch không đủ.
- Mực nước ngầm có áp lực tương đối cao
- Trong tầng cuội sỏi
có nước chảy hoặc không có nước, trong hố xuất hiện hiện tượng mất dung
dịch.
- Tỷ trọng và nồng độ
của dung dịch không đủ.
- Dung dịch không đáp
ứng kịp thời
- Tại vị trí khoan
không có chống thành vách thì có lớp địa chất nhão có tỉ trọng lớn hơn tỉ trọng
của bentonite
- Sử dụng dung dịch
giữ thành không thoả đáng.
- Do tốc độ làm lỗ
nhanh quá nên chưa kịp hình thành màng dung dịch ở trong lỗ.
5.Các nguyên
nhân chủ yếu ở trạng thái động: [2]
- Ống vách bị biến dạng đột ngột hoặc hình dạng không phù hợp.
- Ống vách bị
đóng cong vênh, khi điều chỉnh lại làm cho đất bị bung ra.
- Dùng gầu ngoạm kiểu
búa, khi đào hoặc xúc mạnh cuội sỏi dưới đáy ống vách làm
cho đất ở xung quanh bị bung ra.
- Khi trực tiếp để
bàn quay lên trên ống giữ, do phản lực chấn động hoặc quay làm giảm lực
dính giữa ống vách với tầng đất.
- Khi hạ khung cốt thép va
vào thành hố phá vỡ màng dung dịch hoặc thành hố.
- Thời gian chờ đổ bê
tông quá lâu ( qui định thông thường không quá 24 h) làm cho dụng dịch
giữ thành bị tách nước dẫn đến phần dung dịch phía trên không đạt yêu cầu
về tỷ trọng nên sập vách.
- Rút gàu khoan quá
nhanh tạo nên hiệu ứng piston làm giảm áp suất trong lỗ khoan (phần dưới
gàu khoan).
Ngoài ra còn
có một nguyên nhân khá quan trọng khác là áp dụng công nghệ khoan không phù hợp
với tầng địa chất.
6.Các biện
pháp đề phòng sụt lở thành hố: [2]
Theo các
nguyên trên, để đề phòng sụt lở thành hố phải chú ý các việc sau:
- Khi lắp dựng ống vách phải
chú ý độ thẳng đứng của ống giữ.
- Công tác quản lý
dung dịch chặt chẽ trong phương pháp thi
công phản tuần hoàn.
- Khi xuất hiện nước ngầm có áp, tốt nhất là nên hạ ống vách qua
tầng nước ngầm. Khi làm lỗ nếu gặp phải tầng cuội sỏi mà làm cho rò gỉ mất
nhiều dung dịch thì phải dừng lại để xem xét nên tiếp tục sử lý hay thay
đổi phương án. Vì vậy công tác điều tra khảo sát địa chất ban đầu rất quan
trọng.
- Duy trì tốc độ
khoan lỗ theo qui định tránh tình trạng tốc độ làm lỗ nhanh quá khiến màng
dung dịch chưa kịp hình thành trên thành lỗ nên dễ bị sụt lở.
- Cần phải thường
xuyên kiểm tra dung dịch trong quá trình chờ đổ bê
tông để có giải pháp sử lý kịp thời tránh trường hợp dung dịch bị lắng
đọng tách nước làm sập vách.
- Khi làm lỗ bằng
guồng xoắn, để đề phòng đầu côn quay khi lên xuống làm sạt lở thành lỗ,
phải thao tác với một tốc độ lên xuống thích hợp và phải điều chỉnh cho
vừa phải thành ngoài của đầu côn quay với cạnh ngoài của dao cắt gọt cho
có cự ly phù hợp.
- Khi thả khung cốt thép phải
thực hiện cẩn thận tránh cho cốt thép va chạm mạnh vào thành lỗ. Sau khi
thả khung cốt thép xong phải thực hiện việc dọn đất cát bị sạt lở, thuờng
dùng phương pháp trộn phun nước, sau đó dùng phương pháp không khí đây
nước, bơm cát v.v... để hút thứ bùn trộn ấy lên, lúc này phải chú ý bơm
nước áp lực không đuợc quá mạnh tránh làm cho lỗ khoan bị phá hoại nhiều
hơn.
7.Biện pháp xử lý khắc phục:
- Nếu nguyên nhân sụt
lở thành vách
do dụng dịch giữ thành không đạt yêu cầu thì biện pháp chung là bơm dung
dịch mới có tỷ trọng lớn hơn vào đáy lỗ khoan và bơm đuổi dung dịch cũ ra
khỏi lỗ khoan. Sau đó mới tiến hành xúc đất và vệ sinh lỗ khoan. Trong quá
trình lấy đất ra khỏi lỗ khoan luôn luôn duy trì mức dung dịch trong lỗ
khoan đảm bảo theo qui định cao hơn mực nước thi
công 2m.
- Nếu nguyên nhân do
ống vách
chưa hạ qua hết tầng đất yếu thì giả pháp duy nhất là tiếp tục hạ ống vách
xuống qua tầng đất yếu và ngập vào tầng đất chịu lực tối thiểu bằng 1m.
- Nếu do lực ma sát
lớn không hạ được ống vách chính thì dùng các ống vách phụ hạ theo từng lớp xuống
dưới để giảm ma sát thành vách. Số luợng ống vách phụ phụ thuộc vào chiều
sâu tầng đất yếu.Ông vách phụ trong cùng có chiều dài xuyên suốt và đường
kính bằng ống vách chính ban đầu. Các lớp ống vách phụ hạ trước đó có
chiều dài ngắn hơn một đoạn theo khả năng hạ được của thiết bị hạ ống vách
chịu ma sát trên đoạn đó và có đường kính lớn hơn 10 cm theo từng lớp từ
trong ra ngoài.
Do sụt lở hố
khoan nên hạ xuống bị lồng thép bị trồi lên; khi quá trình liên kết các lồng thép không
chặt khi đổ bê tông sẽ bị tụt xuống ; hay bị đứt lồng thép ;
do trước khi đổ không kiểm tra nghiệm thu hố khoan kỹ; không nạo vét vệ sinh
- Nguyên nhân 1: Thành
ống bị méo mó, lồi lõm.
Cách phòng
ngừa: Kiểm tra kỹ thành trong ống vách nhất là ở
phần đáy. Nếu bị biến dạng hoặc méo mó thì phải nắn sửa.
- Nguyên nhân 2: Cự ly
giữa đường kính ngoài của khung cốt thép với thành trong của ống vách nhỏ
quá, vì vậy sẽ bị kẹp cốt liệu to vào giữa khi rút ống vách cốt thép sẽ bị
kéo lên theo.
Cách phòng
ngừa: Quản lý chặt chẽ cốt liệu bê
tông. Cự ly giữa thành trong ống vách và thành
ngoài của cốt đai lớn đảm bảo gấp 2 lần đường kính lớn nhất của cốt liệu thô.
- Nguyên nhân 3: Do bản
thân khung cốt thép bị cong vênh, ống vách bị
nghiêng làm cho cốt thép đè chặt vào thành ống.
Cách phòng
ngừa: Phải tăng cường độ chính xác ở khâu gia công cốt thép, đề phòng
khi vận chuyển bị biến dạng và kiểm tra độ thẳng đứng của ống vách trước khi
thả lồng cốt thép.
Cách sử lý sự
cố :
Khi bắt đầu đổ bê tông thấy phát hiện cốt thép bị trồi
lên thì phải lập tức dừng việc đổ bê tông lại và kiên nhẫn rung lắc ống vách , di động
lên xuống hoặc quay theo một chiều để cẳt đứt sự vướng mắc giữa khung cốt thép
và ống vách. Trong khi đang đổ bê tông, hoặc khi rút ống lên mà đồng thời cố
thép và bê tông cùng lên theo thì đây là một sự cố rất nghiêm trọng : hoặc
thân cọc
với tầng đất không được liên kết chặt, hoặc là xuất hiện khoảng hổng. Cho nên
trường hợp này không được rút tiếp ống lên trước khi gia cố tăng cường nền đất
đã bị lún
xuống.
Đây là là
nguyên nhân nhân chính gây ra sự cố trồi cố thép, lực đẩy
động bê
tông xuất hiện ở đáy lỗ khoan khi bê tông rơi từ miệng ống xuống (thế năng
chuyển thành động năng ). chiều cao rơi bê tông càng lớn, tốc độ đổ bê tông
càng nhanh thì lực đẩy động càng lớn. cốt thép sẽ không bị trồi nếu lực đẩy
động nhỏ hơn trọng lượng lồng thép.
- Vì vậy có thể giảm
thiểu sự trồi cốt thép nếu hạn chế tối đa chiều cao rơi bê
tông và tốc độ đổ bê tông. chiều cao này có thể không chế căn cứ vào
trọng lượng lồng thép.
- Mặt khác có thể coi
bê
tông rơi xuống đáy lỗ khoan là trên nền đàn hồi, vì vậy việc giảm
thiểu tốc độ đổ bê tông sẽ làm giảm thiểu phản lực đẩy ở đáy lỗ khoan.
- Khi xoay ống vách thì
cốt thép
chủ bị xoay theo do tỳ vào ống ách qua các con kê và các cốt liệu lớn.
nhất là khi toàn bộ khung cốt thép tỳ lên ống vách thông qua các con kê do
không dùng hệ khung cốt thép treo tạm thời khi đổ bê
tông (như ở trụ 7 cầu đuống ) thì ảnh hưởng dao động của cốt thép khi
xoay ống vách càng lớn. khi đó dưới tác động của việc xoay ống vách và
trọng lượng của khung cốt thép thì toàn bộ khung cốt thép phần trên sẽ bị
tụt xuống.
- Khung cốt thép dùng
mối nối buộc phải buộc thật chắc chắn và cẩn thận các mối nối giữa cốt
thép chủ với cốt chủ, giữa cốt chủ với cốt đai và các cốt thép với nhau.
- Để hạn chế ảnh
hưởng tác động của ống vách khi xoay vách tốt nhất là nên dùng các cốt thép tạm
nối với cốt chủ nhô lên khỏi ống vách và treo toàn bộ lồng cốt thép trong
lúc đổ bê tông. cách này sẽ hạn chế tối đa lực tỳ của lồng
thép lên ống vách. nếu việc treo này vướng cho công tác đổ bê tông thì có
thể không treo nhưng phải thường xuyên theo dõi cao độ cốt thép phụ tạm
hoặc khi xoay ống vách phải treo lên.
- Do điều kiện đất
(chủ yếu là tầng cát). Lực ma sát giữa ống chống với đất ở xung quanh lớn
hơn lực nhổ lên ( lực nhổ và lực rung) hoặc khả năng cẩu lên của thiết bị
làm lỗ không đủ. Trong tầng cát thì sự cố kẹp ống thường xảy ra, do ảnh
hưởng của nước ngầm khá lớn, ngoài ra còn do ảnh hưởng của mật
độ cát với việc cát cố kết lại dưới tác dụng của lực rung. Còn trong tầng
sét, do lực dính tương đối lớn hoặc do tồn tại đất sét nở v.v...
- Ống vách hoặc
thiết bị tạo lỗ nghiêng lệch nên thiết bị nhổ ống vách không phát huy hết
được năng lực.
- Lưỡi nhọn ống vách bị
mài mòn lên làm tăng lực ma sát giữa ống vách với tầng đất.
- Thời gian giữa hai
lần lắc ống dài quá cũng làm cho khó rút ống đặc biệt là khi ống vách đã
xuyên vào tầng chịu lực.
- Bê
tông đổ một lượng quá lớn mới rút ống vách hoặc
đổ bê tông có độ sụt quá thấp làm tăng ma sát giữa ống vách và bê tông.
- Có thể do quá trình
thi
công lâu quá ; máy móc đi lại xung quanh ; làm cho đất lèn
chặt và ép thành ống vách chặt lại nên không rút ra được.
- Chọn phương pháp thi
công và thiết bị thi công đảm bảo năng lực thiết bị
đủ đáp ứng nhu cầu cho công nghệ khoan cọc.
- Sau khi kết thúc
việc làm lỗ và trước lúc đổ bê
tông phải thường xuyên rung lắc ống, đồng thời phải thử nâng hạ ống
lên một chút ( khoảng 15 cm) để xem có rút được ống lên hay không. Trong
lúc thử này không được đổ bê tông vào.
- Khi sử dụng năng
lực của bản thân máy mà nhổ ống chống không lên được thì có thể thay bằng
kích dầu có năng lực lớn để kích nhổ ống lên.
- Trước khi lắc ống
lợi dụng van chuyển thao tác, lúc lắc với một góc độ nhỏ làm cho lực cản
giảm đi, để cho nó từ từ trở lại trạng thái bình thường rồi lại nhổ lên,
và phải đảm bảo hướng nhổ lên của máy trùng với hướng nhổ lên của ống. Nếu
ống bị nghiêng lệch thì phải sửa đổi thế máy cho chuẩn.
- Nếu phát hiện ra
lưỡi nhọn ống vách bị mài mòn phải kịp thời dùng phương pháp hàn chồng để
bổ xung.
Khi dùng sóng
siêu âm người ta thấy khuyết tật của cọc sau khi thi công ;
những nguyên nhân trên có thể là tác nhân gây cho cọc có khuyết tật.
- Kỹ thuật, thiết bị
khoan hoặc loại cọc ấn định kém thích hợp với đất nền.
- Sự mất dung dịch
khoan bất ngờ(khi gặp hang caster ) hoặc sự trồi lên đột ngột của đất bị
sụt lở vào lỗ khoan.
- Sự quản lý kém khi
khoan tạo lỗ do sử dụng loại dung dịch có thành phần không thích hợp với
đất nền.
- Sự nghiêng lệch bấp
bênh hoặc hệ thống khoan tạo lỗ của máy khi gặp đá mò côi hoặc lớp đá
nghiêng.
- Làm sạch lỗ khoan
không đầy đủ, đáy lỗ khoan có một lớp cặn dày ít nhiều sinh ra một sự tiếp
xúc không tốt tại mũi cọc và làm nhiễm bẩn bê
tông.
- Thiết bị đổ bê
tông không thích hợp.
- Sai sót trong việc
nối ống đổ bê tông, dứt đoạn đổ bê tông, do sự rút ống dẫn bê
tông quá nhanh.
- Sự cấp liệu không
đều dẫn đến lượng bê
tông chiếm chỗ ban đầu không đủ do đổ nhanh (chẳng hạn giữa ống dẫn và
đai bọc).
- Sự dụng bê
tông có thành phần không thích hợp, khong đủ tính dẻo và dễ phân tầng.
- Sự lưu thông mạch nước ngầm làm trôi cục bộ bê
tông tươi.
- Sự xắp xếp lại nền
đất làm suy giảm ma sát thành bên hoặc khả năng chịu lực của mũi cọc.
- Thời hạn giãn cách
kéo dài giữa khâu khoan tạo lỗ và đổ bê
tông cọc
gây ra sự sụt lở đất ở vách lỗ khoan và lắng đọng chất cặn ở đáy lỗ khoan, đó là
sự cố thông thường xảy ra ở công trường thi
công một số lượng lớn cọc khoan nhồi.
Phương pháp
bơm vữa này cho phép:
- Tái tạo lại bê
tông có khuyết tật mà đặc tính của bê tông này là thiếu chất gắn kết.
- Gia cố khối lượng
đất nền đã bị giảm khả năng chịu lực và bị xáo trộn bằng cách thấm nhập
vữa.
- Lấp các đường nứt hoặc
lỗ rỗng của đất nền.
- Phải xác định thành
phần vữa, định lượng vữa sử dụng, áp lực bơm và khối lượng cần phun.
- thay thế
lớp mùn khoan và dung dịch sét phần mũi cọc khoan nhồi bằng một lớp vữa xi măng
cát mác 300 tương đương với cường độ bê
tông thân cọc.
- không làm ảnh hưởng tới cấu trúc địa tầng của lớp cuội sỏi dưới mũi cọc.
- Đối với cọc các
lỗ khoan kiểm tra có thông nước với nhau thì sử dụng 3 lỗ khoan kiểm tra
làm lỗ để bơm và thoát vữa, (vị trí lỗ khoan là các ống nhựa đường kính
đường kính 100mm và 2 ống nhựa đường kính 60mm phía đối diện đã đặt sẵn
trong cọc ). hai ống nhựa còn lại để sử dụng làm lỗ kiểm tra kết quả bơm
vữa sử lý.
- Đối với các cọc không
có hiện tượng thông nước với nhau trong khi khoan kiểm tra và thổi rửa thì
phải khoan thủng 2 ống nhựa còn lại để bơm vữa vào mũi cọc.
- Nếu ống nhựa đường
kính 60 không thẳng, không thể tận dụng làm lỗ khoan xử lý được, thi phải
khoan thêm một lỗ đường kính 93 mm dọc suốt thân cọc, vị
trí lỗ khoan này nên cách lồng thép
>25 cm, nhưng tác dụng của lỗ khoan này hạn chế hơn các lỗ xung quanh
cọc khi bơm vữa xử lý.
- Dùng máy khoan để
nâng, hạ ống thép đường kính 33* 44mm dài bằng chiều dài cọc để
xói rửa.
- Dùng vòi nước có áp
từ 5 đến 10 át, lưu lượng 10 –15 m3/giờ để xói rửa lớp mùn ở phần mũi cọc .
- Áp lực bơm phù hợp
phải xác định tại hiện trường nhằm đảm bảo 2 yêu cầu
·
Xói sạch lớp mùn xốp ở mũi cọc
·
Không làm ảnh hưởng tới tầng cuội sỏi ở phía
dưới
- Thời gian xói rửa
tại mỗi cọc
tuỳ thuộc vào lượng mùn ở mũi cọc, khi thấy nước đùn lên ở miệng lỗ khoan
đã sạch mùn và chỉ còn lẫn cát thì dừng bơm rửa để không ảnh hưởng tới
tầng cuội sỏi phía dưới.
- Việc bơm vữa xi
măng cát tuân thủ theo công nghệ thi
công vữa dâng tại vị trí các ống nhựa đường kính 100 mm. áp lực bơm
vữa từ 5 – 6 át, để tạo áp lực phải bố trí nút cao su ở lỗ khoan đặt ống
bơm vữa.
- Đối với các lỗ
khoan không có hiện tượng mất nước trong khi khoan thì bơm xử lý làm nhiều
đợt, mỗi đợt cách nhau 1 ngày để tránh hiện tượng mất vữa vào tầng cuội
sỏi.
- Khi thấy vữa dâng
lên tràn qua mặt ống nhựa thì cho dừng bơm và xem như chân cọc và
ống nhựa đã được lấp đầy vữa.
Quá trình
hình thành hang cactơ trong các khối núi đá vôi chủ yếu tập trung tại Miền Bắc
Việt Nam và kéo dài đến đầu tỉnh Quảng Trị thì không thấy xuất hiện trên bề
mặt, tại Đà Nẵng lại xuất hiện khối núi Ngũ Hành Sơn, vô Miền Nam bắt gặp đá
vôi tại Hà Tiên. Có thể nhận định diện phân bố của đá vôi tại Việt Nam có xu
hướng chìm sâu và tắt dần từ Bắc vào Nam.Trong xây dựng cầu trên QL1A đã gặp
một vài sự cố khi thi công cọc khoan nhồi qua vùng có hang cactơ như cầu Hàm
Rồng (Thanh Hoá), cầu sông Gianh và QL12A (Quảng Bình) là ví dụ điển hình.
Nói chung
không thể định trước được sự phân bố của Hang Karst, cần chú ý khi khoan nếu
gặp hang thì cần phải xử lý ngay. Trong điều kiện có thể nên tiến hành thăm dò
địa vật lý trước rồi khoan sau. Khi khoan thì yêu cầu người đứng máy và người
chỉ đạo kỹ thuật phải rất dày dạn kinh nghiệm. Khi gặp các hang phải thực hiện
chống ống vách tránh hiện tượng mất dung dịch và sập đáy có thể dẫn đến mất
toàn bộ dụng cụ khoan.
- Dấu hiệu thường
thấy khi mũi khoan gặp hang caster là độ lún cần
khoan tăng đột ngột, cao độ dung dịch trong lỗ khoan có thể bị tụt xuống
khi gặp hang rỗng hoặc dâng lên khi trong hang có nước có áp hoặc bùn
nhão.
- Việc gặp hang
caster có nhiều bùn nhão như ở cầu bợ khiến phải sử lý mất rất nhiều thời
gian, trong đó việc sử dụng ống vách phụ
qua hang caster cũng là một giải pháp đang được áp dụng khá hiệu quả.
trong trường hợp phát hiện trước có hang caster thì sử dụng thiết bị khoan
xoay ống vách là phương pháp hiệu quả nhất.
- Việc sử dụng ống vách phụ
qua hang caster kết hợp với ống vách mở rộng bên ngoài được tiến hành như
sau:
- Bước 1: sử dụng
ống vách
mở rộng 1800 dày 14mm rung hạ bằng búa rung bp170 đến cao độ cho phép có
thể rút được ống vách lên tuỳ theo năng lực thiết bị hiện có. có thể kết
hợp đào đất hoặc xói hút trong ống vách để giảm thiểu lực ma sát thành cọc.
- Bước 2: khoan
trong lòng ống vách mở rộng bàng máy khoan bauer sau đó doa lỗ 1650. vách thép phụ
1600 được ép hạ qua hang sau đó tiếp tục khoan 1500 và đổ bê
tông bình thường.
Ống vách phụ được
giữ lại trong đất còn ống vách mở rộng có thể được rút lên sau khi khoan xong.
Do một nguyên
nhân nào đó như mất điện máy phát, hỏng cẩu.v.v.. làm gián đoạn quá trình khoan
cọc, cần
phải rút đầu khoan lên ngay ngay sau khi mất điện thì đầu khoan bị kẹt ở đáy lỗ
không cẩu lên được cũng không thể nhổ lên được.
Nguyên nhân
là do hiện tuợng sập vách phần đất đã khoan duới đáy ống vách chưa kịp hạ xảy ra ngay
sau khi mất điện làm nghiêng đầu khoan, đầu khoan bị vướng vào đáy ống vách và
bị toàn bộ phần đất sập xuống bao phủ. Do vậy không thể rút đầu khoan lên được.[2]
- Cách 1: Rút ống vách lên
khoảng 20 cm sau đó mới rút đầu khoan, sau khi rút được đầu khoan lên rồi
sẽ lại hạ ngay ống vâch xuống.
- Cách 2: Nếu không
thể nhổ được ống vách do ống vách đã hạ sâu, lực ma sát lớn, ta phải dùng
biện pháp xói hút . Cách tiến hành như sau:
Dùng vòi xói
áp lực cao xói hút phần đất đã bị sập và xói sâu xuống dưới đầu khoan mục đích
làm cho đầu khoan trôi xuống dưới theo phương thẳng đứng để khỏi bị nghiêng vào
thành vách.
Sau đó mới cẩu rút đầu khoan.
- Lưu ý: Trong
suốt quá trình xói hút luôn giữ cho mực nước trong lỗ khoan ổn định đầy
trong ống vách
để giữ ổn định thành lỗ khoan dưới đáy ống vách.[3]
KIẾN
THỨC LÀ VÔ TẬN HÃY LIKE VÀ CHIA SẼ NHÉ CÁC BẠN
P/S: Nếu
nó giúp ích cho bạn, hãy cho tôi một vài lời cảm nhận trên facebook để tôi có
động lực gửi cho bạn những bai dang tiếp theo nhé.
Cảm ơn bạn đã ghé thăm website.
0 nhận xét:
Post a Comment